Trịnh – Nguyễn phân tranh
1/ Các chúa Trịnh ở Đàng ngoài
1/ Bình An Vương – Trịnh Tùng (1623 – 1652) : Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm, là người có công đánh đổ nhà Mạc, lấy lại chính quyền cho nhà Lê. Ông được coi là vị chúa Trịnh đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng là người kết thúc cho thời kỳ Nam-Bắc triều và mở ra thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh.
2/ Thanh Đô Vương – Trịnh Tráng (1623 – 1652) : năm 1623 Trịnh Tùng lâm bệnh nặng và mất, con là Trịnh Tráng lên thay. Ông đã 4 lần phát quân đánh với chúa Nguyễn ở Đàng Trong nhưng chỉ toàn thất bại nên phải rút về.
3/ Tây Đô Vương – Trịnh Tạc (1653 – 1682) : năm 1653, Trịnh Tráng phong Trịnh Tạc làm Tây Đô Vương. Năm 1657, chúa Nguyễn đem quân vượt sông Gianh đánh Bắc Bố Chính và chiếm được 7 huyện Nam Hà. Trong lúc chiến sự gay go thì Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên thay. Ông cùng với con trai là Trịnh Căn, phản công với quân của chúa Nguyễn giành lại được Bắc Hà vào năm 1660.
4/ Định Vương – Trịnh Căn (1682 – 1709) : năm 1682 Trịnh Tạc mất, con là Trịnh Căn lên thay. Ông là người có tài cả về quân sự lẫn văn trị. Ông từng cầm quân giành lại đất Bắc Hà từ tay chúa Nguyễn. Ông cũng là người khôn khéo trong ngoại giao khi buộc nhà Thanh phải trả lại các vùng đất bị quan trấn thủ nhà Thanh chiếm ở vùng biên giới. Thời gian ông cầm quyền có thể nói là thời kỳ thịnh vượng nhất ở Đàng Ngoài.
5/ An Đô Vương – Trịnh Cương (1709 – 1729) : năm 1709 Trịnh Căn qua đời, vì con và cháu nội đích truyền đều đã mất, nên chắc là Trịnh Cương lên thay. Ông kế vị trong hoàn cảnh đất nước thái bình, thịnh trị, không có nạn đao binh. Ông sớm tỏ ra là người chín chắn, tận tụy khi tiếp quản cơ nghiệp của tổ tiên và củng cố thêm nền cai trị ở Đàng Ngoài.
6/ Uy Nam Vương – Trịnh Giang (1729 – 1740) : năm 1740 Trịnh Cương đột ngột qua đời, con là thái tử Trịnh Giang lên thay. Giang là người ương hèn, lại ham mê hưởng lạc khiến cho quần thần bất mãn, giặc giã nổi loạn khắp nơi, nền chính trị ở Bắc Hà lung lay dữ dội. Có lần Trịnh Giang bị sét đánh gần chết. Từ đó mắc bệnh “kinh quý”, tâm thần hoảng loạn, phải cho xây cung Thưởng Trì xuống lòng đất để ở.
7/ Minh Đô Vương – Trịnh Doanh (1740 – 1767) : năm 1740, các quần thần trong triều hợp sức đồng lòng lập Trịnh Doanh là em của Trịnh Gianh lên làm chúa, tức Minh Đô Vương. Doanh từ nhỏ đã sớm biểu hiện là người văn tài võ lược. Khi lên ngai vương, ông đã lập tức sửa sang lại những gì mà Trịnh Giang đã làm sai như phế bỏ vua Lê Duy Phường, lập vua Lê Duy Tường, đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa nông dân ở Đàng Ngoài.
8/ Tĩnh Đô Vương – Trịnh Sâm (1767 – 1782) : năm 1767, Trịnh Doanh mất, con là thái tử Trịnh Sâm lên thay. Từ nhỏ Sâm đã được nuôi dạy rất cẩn thận nên khi trưởng thành là người văn võ toàn tài, tính tình cứng rắn, thông minh và quyết đoán. Ông cũng là vị chúa đầu tiên và duy nhất ở Đàng Ngoài đánh chiếm được vùng Thuận Hóa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng sau khi thắng trận lại tỏ ra kiêu căng tự phụ.
9/ Điện Đô Vương – Trịnh Cán (2 tháng trong năm 1782) : năm 1767, Trịnh Sâm mất, con là Trịnh Cán còn nhỏ lại hay đau bệnh lên thay.
10/ Đoan Nam Vương – Trịnh Khải (1782 – 1786) : sau khi Trịnh Sâm mất, Trịnh Khải là con trai trưởng muốn cướp ngôi nên đã xúi giục bọn kiêu binh ở Tam phủ nổi loạn, phế Cán lập Khải lên ngôi. Lúc này Bắc Hà rơi vào nạn kiêu binh nổi loạn, cướp phá khắp nơi.
11/ Án Đô Vương – Trịnh Bồng (1787 – 1788) : năm 1786, nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo tiến đánh Bắc Hà. Quân Trịnh Khải chống cự yếu ớt và bị đánh tan tác. Bản thân Trịnh Khải bị bắt và tự tử ngay sau đó. Để cứu cơ nghiệp của nhà Trịnh, Trịnh Bồng là bác họ của Trịnh Khải tập hợp các tướng lĩnh cũ để mưu đồ việc lớn. Nhưng sau nhiều lần thất bại ông đã từ bỏ ngai vương, chọn cuộc sống tu hành rồi trốn đời biệt tích. Ông là vị Trịnh vương cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
2/ Các chúa Nguyễn ở Đàng trong
1/ Chúa Tiên – Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) : là vị chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho vương triều Nguyễn (1802 – 1945). Ông quê ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa, ngày nay là Gia Miêu Ngoại Trang, thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Ông nội (Nguyễn Văn Lưu) và cha ông (Nguyễn Kim) là những trọng thần của triều đình nhà Hậu Lê. Sau cái chết của cha ông là Nguyễn Kim, người anh rể là chúa Trịnh Kiểm nắm giữ quyền hành đã giết chết anh trai ông là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái Nguyễn Thị Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho mình vào trấn thủ Thuận Hóa, Trịnh Kiểm chấp thuận.
2/ Sãi vương – Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635) : ông là con thứ 6 của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng – người có công khai phá mở mang bờ cõi ở phương Nam. Ông là người có tài về quân sự, chính trị và ngoại giao. Trong thời gian cai trị ông đã cố gắng xây dựng xứ Đàng Trong độc lập, tự chủ, hoàn toàn ly khai với Đàng Ngoài. Ông cũng là người 2 lần đánh bại cuộc tiến công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông cũng được dân gian gọi là chúa Sãi (Sãi vương), hay chúa Bụt (Phật vương).
3/ Thượng vương – Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) : năm 1635 Sãi vương qua đời, con thứ 2 là Nguyễn Phúc Lan lên thay. Ông cũng được gọi là chúa Thượng (Thượng vương).
4/ Hiền vương – Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) : năm 1648, Thượng vương đột ngột qua đời trong khi có chiến sự với Đàng Ngoài. Nguyễn Phúc Tần là con lên thay. Ông là vị chúa đầu tiên và duy nhất ở ĐàngTrong chủ động cho quân vượt sông Gianh đánh Đàng Ngoài và chiếm được Nam Hà. Sau thời gian giằng co với quân Trịnh, năm 1672 hai bên chính thức đình chiến, lấy sông Gianh làm biên giới. Về đối nội ông là người chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc và coi trọng hiền tài nên ông được dân gian gọi là chúa Hiền (Hiền vương).
5/ Nghĩa vương – Nguyễn Phúc Thái (1687 – 1691) : năm 1687 Hiền vương qua đời, con là Nguyễn Phúc Thái lên thay. Phúc Thái nổi tiếng là người nhân nghĩa, rộng lượng, là vị chúa có tài. Ông trọng dụng hiền tài, giảm nhẹ hình phạt, thuế khóa khiến trăm họ đều vui nên dân gian gọi ông là chúa Nghĩa (Nghĩa vương).
6/ Minh vương – Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) : năm 1691, Nghĩa vương qua đời, con là Nguyễn Phúc Chu lên thay. Ông là một vị chúa có hiền và có tài nên dân gian gọi là chúa Minh (Minh vương hay Quốc chúa Minh vương). Nối nghiệp tiền nhân, ông mở mang bờ cõi xuống phía Nam đến tận Hà Tiên. Ông cũng là người rất coi trọng hiền thần, thích lời ngay thẳng, bỏ xa hoa, giảm nhẹ thuế má, ngục hình.
7/ Ninh vương – Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738) : năm 1725 Nghĩa vương qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Thụ tiếp ngôi. Thụ từ nhỏ đã là người văn võ toàn tài. Ông đã có công đánh đuổi quân Chân Lạp quấy nhiễu và lấy được đất ở Vĩnh Long và Mỹ Tho. Ông đặt ra các đơn vị hành chánh để quản lý, giữ gìn và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông được dân gian gọi là chúa Ninh (Ninh vương).
8/ Võ vương – Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) : năm 1738, Ninh vương qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Khoát lên thay. Ông là người thông minh, cương nghị, dứt khoát đôi khi tàn nhẫn. Ông là người có công rất lớn trong công cuộc Nam tiến và lấy được rất nhiều vùng đất đai màu mỡ như: Tân An, Gò Công, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc, Sa Đét. Dân gian thường gọi ông là chúa Võ (Võ vương).
9/ Định vương – Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777) : năm 1765, Võ vương qua đời, quyền thần Trương Phúc Loan nắm hết quyền hành. Phúc Loan phế ngôi của Nguyễn Phúc Luân và đưa Nguyễn Phúc Thuần lúc đó còn nhỏ lên thay. Lúc này, khởi nghĩa Tây Sơn nổi dậy cùng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đánh chiếm Thuận Hóa và tiến về Nam Bộ. Năm 1777, Phúc Thuần bị quân Tây Sơn bắt và giết chết ở Long Xuyên. Ông là vị chúa cuối cùng của nhà Nguyễn ở Đàng Trong trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh này. Dân gian gọi ông là chúa Định (Định vương).